Cá đuôi kéo còn có tên gọi là cá lòng tong đuôi đen, cá phi tiêu, cá lòng tong đuôi kéo, cá lòng tong đuôi sọc. Cá đuôi kéo có tên tiếng anh là Scissortail rasbora fish, tên khoa học là Rasbora trilineata. Cá đuôi kéo là loài cá nhỏ, hiền lành có xuất xứ từ Đông Nam Á. Ở Việt Nam cá đuôi kéo phân bố ở đồng bằng sông Cửu Long. Cá đuôi kéo chủ yếu từ khai thác tự nhiên, chúng là một loại cá cảnh nhỏ được xuất khẩu và cũng được người dân dùng làm thực phẩm.
Cá đuôi kéo có thân trong mờ, một sọc đen pha vàng chạy dọc thân, chóp 2 thùy vây đuôi có 2 vệt đen xen kẽ các vệt trắng và vàng, khi cá nghỉ thì đuôi cá rung nhẹ tựa như đuôi kéo. Kích thước cá chỉ khoảng 8- 10cm, tuổi thọ khoảng 5 năm.
Cá đuôi kéo có tính cách hiền lành, dễ kết hợp nuôi chung cá đuôi kéo được với nhiều loại cá hiền lành khác. Chúng sống thành đàn, bơi ở tầng mặt và tầng giữa, trong bể thủy sinh chúng có vẻ đẹp dung dị mộc mạc với ánh bạc lấp lánh.
Cá đuôi kéo ăn tạp dễ nuôi, trong tự nhiên thức ăn của chúng là rong tảo, côn trùng, giáp xác nhỏ. Trong bể nuôi chúng ăn trùng chỉ, côn trùng, giáp xác và cả thức ăn viên.
Cá đuôi kéo phát triển tốt ở nhiệt độ từ 23-25 độ C; pH từ 6,5-7,0; độ cứng từ 2 đến 12 dGH. Chúng yêu cầu một khu vực bơi lội rộng và hoạt động tốt nhất trong các bể dài. Bể cũng nên có nắp đậy vì cá có khả năng nhảy ra ngoài.
Con đực thường nhỏ hơn và mảnh mai hơn con cái. Khi sẵn sàng đẻ trứng, con đực có màu đậm hơn. Con cái nhìn chung bụng to và tròn hơn, đặc biệt là khi nhìn từ trên xuống.
Cá đuôi kéo thường sinh sản vào mùa mưa ở miền Tây Nam bộ. Cá thường đẻ trứng trên rong hoặc những cành cây, sau khoảng 24h trứng sẽ nở thành cá con.
Đến mùa lũ, loài cá này thường di chuyển về phía rừng ngập lũ để giao phối và sinh sản. Sau khi nước lũ rút chúng sẽ quay trở lại các con sông để sinh sống và phát triển. Cá lòng tong thường sống thành từng bầy lớn và bơi ở khu vực gần mặt nước.
Trong bể nuôi, khi cá đẻ trứng thì nên tách cá bố mẹ ra khỏi trứng sau khi đẻ.
0 comments:
Đăng nhận xét