Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2019

Rong đuôi chồn và rong đuôi chó

Rong đuôi chó là loại dễ phát triển, thậm chí phát triển lấn át được các loại cây thủy sinh khác. Cây thậm chí có thể chịu được khu vực thiếu ánh sáng. Cây có hệ rễ phát trển khá tốt. Có thể dùng rong đuôi chó làm sạch nước trước khi thả những loại cây khó trồng khác hoặc cá mới.
Rong đuôi chó

Rong đuôi chồn là một cây dễ trồng trong một hồ thủy sinh. Cây không đâm rễ mà nổi ngay dưới bề mặt nước. Cây sẽ phát triển nhanh nếu neo ở bề mặt. Cây không cần ánh sáng nhiều, nhưng có ánh sáng sẽ nhanh phát triển. Là một cây lớn nhanh, rong đuôi chồn có thể hấp thụ chất dinh dưỡng thừa trong bể cá một cách nhanh chóng. Điều này làm cho cây tăng sức cạnh tranh với các loại tảo. Ngoài ra, rong đuôi chồn và rong đuôi chó đểu có thể sử dụng chống lại tảo.

Rong đuôi chồn
Rong đuôi chồn hay đuôi chó đều có thể làm thức ăn cho cá chép hoặc cá vàng. Rong đuôi chó có thể bị xé nát khi gặp cá vàng. nhưng rong đuôi chồn có thể hình thành phần ngọn dầy và cứng để tránh bị cá xơi tái.



Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2019

Rong la hán

Rong la hán có hai màu chính là xanh và đỏ. Cây thích ánh sáng mạnh, sinh trưởng nhanh. Cây có thể làm trung cảnh hoặc hậu cảnh trong bể thủy sinh. Thiếu anh sáng cây có thể không sinh trưởng và lụi dần.

Rong la hán xanh


Rong la hán đỏ

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2019

Cá thần tiên, cá ông tiên - Angelfish

Cá thần tiên là một loại cá nhiệt đới nước ngọt và sống thành bầy đàn. Loài cá này có nguồn gốc từ sống Amazon, Nam Mỹ. Cá thần tiên thường bơi theo chiều dọc và vây của chúng sẽ không phát triển được nếu chiều cao bể cá nhỏ hơn 40cm. Cá thích các loại thức ăn có dạng mảnh nhưng vẫn có thể ăn được ấu trùng, sâu, côn trùng… Cá thần tiên có thể nhịn đói được khá lâu, tới tận 2 tuần. Tuy nhiên, người nuôi cá không nên chủ quan và để cá nhịn quá lâu vì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cá.

Manacapuru Angelfish

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2019

Cá hoàng tử châu phi, cá kỳ lân –Zebra Tilapia Fish

Cá Hoàng Tử Châu Phi hay còn gọi là cá kỳ lân. Cá có tên tiếng anh là Zebra Tilapia, Tilapia Buttikoferi; tên khoa học là Heterotilapia Buttikoferi, thuộc họ cá rô Cichlid. Cá hoàng tử châu phi sống ở các hệ thống sông ngòi của Tây Phi. Đặc điểm nổi bật dễ nhận biết ở loài cá này là 8 đường sọc màu trắng trên nền đen chạy từ mắt xuống đuôi của cá.

Cá hoàng tử châu phi

Cá hoàng tử châu phi có tính cách rất hung hăng với những cá thể nhỏ hơn nó. Vì thế nên chọn những con cá có kích thước tương tự nhau khi thả chung chúng vào một bể. Cá trưởng thành dài tối đa khoảng 30cm; tuổi thọ của cá hoàng tử châu phi khá cao, lên tới khoảng 14 năm.

Khi còn nhỏ, cá hoàng tử châu phi sống khá hòa bình, nhưng khi trưởng thành, chúng có tập tính lãnh thổ mạnh mẽ (sự hung dữ thường trở nên rõ ràng khi cá đạt được 6 cm trở lên. Cá trưởng thành hiếu chiến hơn nhiều và không có xu hướng hòa đồng với những con khác. Để nuôi cá hoàng tử châu phi cần phải có một bể cá thật rộng rãi. 


Cá kỳ lân là loài cá ăn nhiều. Thức ăn cho cá Kỳ Lân nên bao gồm cả các loại thực vật như dưa chuột, bèo tấm và động vật như ốc, tôm biển, giun đất, trùn chỉ. Hay một số loại thức ăn tự trộn khi say nhuyễn thịt, rau và các vi chất cần thiết, để đông lạnh, ăn dần. Chúng cũng có thể ăn hầu hết các loại thức ăn khô có trên thị trường. Cá cũng khá thông minh có thể nhận ra chủ khi cho ăn.



Cá hoàng tử châu phi là loài dữ dằn. Đặt một con cá kỳ lân đực và một con cá kỳ lân cái cùng nhau thì không có nghĩa vào một ngày nào đó chúng sẽ hợp nhau. Trong thực tế, tốt nhất là để cá lớn lên cùng nhau và kết đôi tự nhiên. 

Cá Kỳ Lân đã được lai tạo thành công trong môi trường nuôi nhốt trại các trang trại. Chúng đào một hố trũng dưới nền cát để tạo thành nơi đẻ trứng và trở lên rất hung dữ trong quá trình sinh sản. Tập tính bảo vệ trứng và cá con của cá rất mạnh.

Trong bể cá, nếu bạn có một cặp tương thích và chúng quyết định sinh sản, khi chúng đẻ xong có thể cân nhắc di chuyển con đực sang khu khác, vì những con trưởng thành có thể trở nên cực kỳ khó chịu với nhau. 

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2019

Cá hổ: cá hổ thái, cá hổ indo, cá hổ mekong - Tiger Fish

Cá hổ là một loài cá săn mồi khá dữ tợn, có vẻ ngoài vằn vện. Cá hổ bao gồm rất nhiều loại như cá Hổ Indo Sumatra, Cá Hổ Mekong, Cá hổ bắc thái, Cá hổ New Guinea..... Chúng có tên tiếng anh là tiger fish, tên khoa học là Datnioides. Cá hổ là loài cá khỏe, ít bệnh và là loài cá giỏi chịu đựng. 

Cá hổ sở hữu vẻ đẹp quyến rũ và những cú đớp mồi nhanh như điện xẹt. Nếu cá hổ Thái, cá hổ Indo…nổi tiếng với sự dũng mãnh của mình thì cá hổ Me kong lại được người chơi đặc biệt yêu thích bởi chúng là “hàng đặc biệt quý hiếm” khi số lượng ngày cảng ít và có thể đem lại may mắn, thịnh vượng cho gia chủ.

Cá hổ sở hữu một hàm răng vô cùng sắc nhọn có thể nghiền nát mọi thứ, chúng luôn trong trạng thái sẵn sáng tấn công các loài cá khác ngay khi nhận được thông tin từ cơ quan cảm nhận âm thanh. 

Cá hổ có điểm nhấn bởi những đường sọc đen ngay trên thân ( thường từ 2-5 sọc), vô cùng ấn tượng, tạo sự thích thú ngay cho dân chơi cá. Cá hổ thuộc loài cá có kích thước lớn, cá trưởng thành có thể đạt 30cm -60 cm, tùy chủng loại và môi trường nuôi cá. Nhiệt độ để cá phát triển tốt là từ 24-28 độ C.

Cá hổ thái


Cá hổ thái - Datnioides Pulcher gốc đuôi có hai sọc. Chúng xuất hiện ở lưu vực sông Mekong,Chao Phraya. Chúng được cho là tuyệt chủng ở Thái Lan vao những năm 1990. Hiện tại số lượng cá hổ thái vẫn còn một ít ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia nhưng rất hiếm.​ Số lượng của chúng đã giảm hơn 90% trong vòng 20 năm qua do mức độ khai thác cho thị trường cá cảnh quốc tế.​ 

Cá hổ Indonesia - Datnioides Microlepis: gốc đuôi có ba sọc, hai sọc sau nhỏ và đều. Chúng phân bố ở lưu vực sông Musi, đảo Sumatra và lưu vực sông Kapuas, đảo Borneo​

Cá hổ indo có giá không quá đắt và cũng rất đẹp khi lên màu. Loài này có rất nhiều biến thể và đa dạng vô cùng. Nó được đánh giá sau Datnioides Pulcher.​ Tuy nhiên,loài Datnioides Microlepis thường thì không giữ được độ ổn định vì màu sắc thất thường.​

Cá hổ indo - Datnioides Microlepis

Cá hổ Campuchia, cá hổ Mekong - Datnioides Pulcher: Loài này có thân trắng sọc đen là chủ yếu. Cá hổ Me kong dưới gốc đuôi của chúng có 2 sọc đậm.

Cá hổ Me Kong

Cá hổ bạc - Datnioides Polota: chúng là dòng cá nước lợ, màu bạc, dáng thuôn, sọc mờ, hai đốm ở gốc đuôi.

Cá hổ bạc - Datnioides Polota

Cá hổ New Guinea - Datnioides Campelli: màu vàng & sọc lem đen đặc trưng. Cá hổ new guinea thường có đầu rất đậm màu với những đốm đen lấm tấm trên nền thân màu vàng, đôi chỗ hơi ánh xanh. Chúng là loài cá nước lợ như cá hổ bạc. Đây là dòng hiếm và thường có giá cao.

Datnioides Campelli

Sinh sản của cá hổ
Cá hổ sinh sản ở môi trường nuôi nhốt rất khó, chưa có ghi nhận lai tạo cá trong bể cá cảnh. Muốn chăm sóc cá hổ nhất định phải trang bị bộ lọc cho bể cá hổ để giảm tần suất thay nước và đảm bảo môi trường trong sạch. Ở thái Lan, người ta đã cố gắng để cá hổ sinh sản nhân tạo nhưng không thành công, kể cá việc tiêm hormon cho chúng.​ Cá hổ không có đặc điểm phân biệt giới tính và cũng chưa có trường hợp lai tạo thành công trong hồ cảnh nào được ghi nhận.

Cá hổ ăn tạp, đặc biệt ưa thích các thức ăn sống, như cá mồi, chạch, cá vàng, chúng cũng có thể ăn tôm đông lạnh, trùn đất, sò, tép,... Thông thường khi mới mua về, nuôi trong môi trường mới, chúng thường bỏ ăn. Tuy nhiên, chỉ sau 1,2 ngày bị bỏ đói chúng sẽ tự động tìm kiếm thức ăn ngay. Không nên dùng tay trần cho cá hổ ăn vì chúng có thể khiến bạn chảy máu.

Cá hổ được nhiều người thả chung với cá rồng tạo thành một "cặp long hổ tương phùng". Hai loài cá này hợp nhau và tạo nên nét đẹp cho bể cá.


Thứ Ba, 1 tháng 10, 2019

Cá tai tượng, cá heo lửa - Oscar fish

Cá tai tượng còn được biết đến với cái tên cá tai tượng châu phi, cá tai tượng da beo, cá heo lửa. Tuy là loài cá đặc trưng cho vùng nhiệt đới và trong tên gọi có từ châu phi, nhưng cá tai tượng lại có nguồn gốc từ sông Amazon Châu Mỹ. 

Cá tai tượng có tên tiếng anh là oscar fish, tên khoa học là Astronotus Ocellatus. Cá tai tượng có sức sống khỏe, thích nghi được với môi trường khắc nghiệt. Cá tai tượng rất thích hợp với khí hậu miền nam Việt Nam, với khí hậu miền bắc mùa đông phải chú ý sưởi ấm cho chúng. Cá tai tượng có tuổi thọ lên tới 20 năm, đó là lý do chọn nuôi một người bạn thân thiết trong hồ cá.

Cá tai tượng châu phi

Ngoài tự nhiên, cá tai tượng còn được dùng làm thực phẩm, còn với dòng cá tai tượng đẹp với nhiều màu sắc đẹp thì được đưa vào làm cảnh. Những con cá tai tượng với phần mầu đỏ được bung ra nhiều và mầu sắc đặc biệt thường hiếm và có giá trên thị trường. Những con cá tai tượng ít mầu đỏ thường dễ kiếm và có giá cả phải chăng.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2019

Cá chạch rắn culi - Coolie loach

Cá chạch rắn culi còn được gọi là cá cạch rắn khuli, cá chạch rắn khoang sọc, cá chạch gai mắt, cá heo mắt gai. Cá chạch rắn culi cá có tên tiếng anh là Coolie loach, Leopard Loach hoặc Kuhli loach; tên khoa học của cá là Pangio kuhlii. 

Cá chạch rắn culi có nguồn gốc ở Đông Nam Á như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia, và chúng có nhiều ở các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh của Việt Nam. Cá chạch rắn culi có thân hình mảnh mai. Thoạt nhìn, rất dễ nhầm Kuhli Loach với lươn. Cơ thể cá chạch rắn mỏng và chúng có các vây tương đối nhỏ khó nhìn thấy.


Cá chạch rắn culi là loài cá ăn tạp. Trong môi trường sống hoang dã tự nhiên của chúng, cá chạch rắn dành thời gian đào hang dưới đáy sông và sàng lọc những thứ để ăn. Hành vi tương tự cũng xảy ra trong bể cá. 

Cá chạch rắn có nhiều màu, từ màu hồng nhạt đến màu vàng đồng. Mặt dưới của cá hơi nhạt. Trên màu cơ bản đó, cá có từ 10 đến 15 sọc sẫm. Cá chạch rắn phù hợp thả trong bể thủy sinh có nền cát mịn hoặc một nền sỏi mịn. 


Cá chạch rắn là loài hiền lành và khá nhút nhát, vì thế nên thả vài con cùng lúc cho chúng tự tin hơn. Giống như một số loài cá dọn bể. Cá chạch rắn có xu hướng hoạt động nhiều về đêm.

Cá chạch rắn có bốn cặp ngạnh xung quanh miệng cá giúp nó cảm nhận được thức ăn xung quanh. Thêm vào đó, ngay dưới mỗi mắt là một đôi gai nhọn. Khi cá được thả lỏng, chúng hầu như không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, những chiếc gai đó sẽ bật lên ngay khi Kuhli Loach bị đe dọa. Đó là những chiếc mắt gai, một cơ chế phòng thủ giúp xua đuổi những kẻ săn mồi. Trong trường hợp chúng bị ăn thịt, những chiếc gai đó là tuyến phòng thủ cuối cùng của cá để gây hại cho những kẻ tấn công.

Cá chạch rắn là loài rất dễ bị bệnh và nhiễm ký sinh trùng. Hầu hết các loài cá đều có vảy cứng để có thể bảo vệ chúng khỏi tác động của vi khuẩn và nấm. Nhưng Kuhli Loach lại không may mắn có tấm khiêng bảo vệ như vậy. Trên đầu chúng hoàn toàn không có vảy. Điều này càng dễ khiến bệnh tật xâm nhập vào.


Cá chạch rắn rất nhạy cảm với những thay đổi nhỏ của nước. Khi đưa Kuhli Loach mới vào bể cá của mình, bạn phải rất cẩn thận về chất lượng nước và nhiệt độ. Nhiệt độ cho cá phát triển là từ 22 - 30 độ C.  Khi nói đến chất lượng của nước, Kuhli Loaches thích độ chua hơn các loài khác một chút. Độ pH cân bằng giữa 5,5 và 6,5 là tốt nhất. Nước cũng phải có chỉ số độ cứng không quá 5,0 dGH. 

Tuy nhỏ bé nhưng cần chú ý rằng cá chạch rắn cũng có thể nhẩy ra khỏi bể hoặc luồn lách vào bộ lọc. 

Cá chạch rắn khuli đực và cái khá khó phân biệt với nhau. Chúng sẽ trưởng thành khi đạt khoảng 2 tuổi. Khi chúng sẵn sàng đẻ trứng, con cái có thể phình to ra. Trong một số trường hợp, bạn thậm chí có thể nhìn thấy buồng trứng của chúng qua da. Cá chạch rắn sinh sản bằng hình thức đẻ trứng dính trên những cá thể mềm. 

Trong tự nhiên, cá chạch gai mắt đẻ trứng ở vùng nước rất nông với cây cối rậm rạp. Khi cá đẻ, bể nuôi của bạn cũng nên có mực nước thấp hơn và có thực vật sống nổi. Giữ mức ánh sáng thấp và điều chỉnh chất lượng nước. Giảm độ cứng của nước một chút và tăng độ pH lên 6,5.

Khi cá đẻ, cần chú ý vớt cá bố mẹ ra vì chúng sẽ ăn trứng và bất kỳ cá con nào nở ra. Chú ý, trứng thường được đẻ ở mặt dưới của cây và có màu xanh lục. Chỉ mất 24h là cá con sẽ nở và có thể cho cá ăn trùng cỏ trong thời gian đầu đời.

Cá khủng long 6 sừng, kỳ nhông nước Axolotl

Khủng long 6 sừng là một loài lưỡng cư. Chúng có những tên gọi khác như kỳ nhông Axolotl (Ambystoma mexicanum), kỳ nhông nước, kỳ nhông mexico. Cá có hình thù lạ lùng và thú vị với 6 sừng bên ngoài và 4 chân. Loài cá độc đáo này sinh sống ngoài tự nhiên tại một nơi duy nhất là hồ Xochimilco ở Mexico. Cơ thể của cá khủng long 6 sừng thường dài từ 18- 20cm. Cá có tuổi thọ trung bình từ 3-4 năm.



Cá khủng long 6 sừng này khá thu hút dân chơi cá kiểng do gương mặt của chúng nhìn rất đáng yêu và khá hài. Chúng có thể sống trên cạn và dưới nước, nhưng môi trường thích hợp cho loài này là bán cạn. Tính tình cũng khá hiền lành, vì vậy khủng long 6 sừng vẫn được nhiều người chơi thủy sinh yêu quý.


Cá có não biết cười và nó còn nổi tiếng bởi khả năng tái tạo các chi bị tổn thương mà không để lại bất cứ sẹo nào. Giống như thằn lằn, chúng có thể hy sinh bộ phận cơ thể để chạy trốn. Khả năng tái sinh của Kỳ Nhông Mexico rất mạnh. Chúng có thể hồi phục những phần cơ thể bị cắt đứt trong vòng một tháng.

Khủng long 6 sừng không cần oxy mà chỉ cần máy lọc nước. Ngoài ra những người bán cũng lưu ý, thân cá khá mỏng manh, sừng mềm nên dễ tổn thương, không nên sờ và bắt chúng nhiều, vì thế không nên nuôi chung với những loài cá ăn thịt dữ dằn hoặc cá có thói quen rỉa vây, mút nhớt.



Khủng long 6 sừng có khuôn mặt vô cùng dễ thương, chúng có 3 màu thuần gồm vàng, đen, trắng. Ngoài ra còn có nhiều màu khác nhưng theo người bán đó là nhuộm, cá dễ bị chết.  Kỳ Giông Axolotl sống ưa thích nước mát mẻ - hơi lạnh, tốt nhất ở nhiệt độ 20 – 25°C.

Khủng long 6 sừng là loài động vât ăn thịt. Khi còn nhỏ chúng có thể ăn trùn quế, bo bo, giun đất. Khi trưởng thành có thể cho ăn thịt cá, thịt bò, trùn đất, tép nhỏ... Thỉnh thoảng có thể cho ăn tim bò. Chú ý khi cá đói có thể sẽ ăn cá có kích thước nhỏ. Thậm chí chúng sẽ tàn sát lẫn nhau đến chết khi trong hoàn cảnh không đủ thức ăn. 


Setup bể nuôi cá khủng long 6 sừng cần tránh những đồ trang trí đáy bể nhỏ hơn miệng cá vì loài này có thị giác rất kém, dễ nhầm tưởng đồ trang trí là thức ăn. Cá khủng long 6 sừng bản tính rất nhát gan, vì thế cần tạo một nơi để chúng ẩn nấp, nhưng phải đủ rộng để chúng thoải mái.

Cá khủng long 6 sừng có thể nuôi trong bể thủy sinh, Môi trường thủy sinh giúp kỳ nhong Axolotl có thể ẩn nấp khi cần. Ngoài ra khi sinh sản, trứng của kỳ giông Axolotl sẽ bám vào bề mặt cỏ và hang đá.

Kỳ nhông Axolotl rất thích đào cát cho nên dưới đáy bể cá tốt nhất nên đặt 4 – 6cm cát. Đây vốn là loài cá khỏe, nhưng vẫn cần chú ý khi mang trên sừng chúng xẹp lại là chúng đang có vấn đề về sức khỏe. Trong môi trường tự nhiên, Kỳ Nhông  Axolotl sinh sống trong các hang sâu ít khi có ánh sáng. Mắt chúng dần thoái hóa, gần như không nhìn thấy gì. Do đó, nơi nuôi kỳ giông nên tối và kín đáo.

Rêu Mini Taiwan, rêu làm tán cho cây bonsai bể thủy sinh

Rêu Mini Taiwan có tên tiếng anh là Taiwan moss, tên khoa học là Taxiphyllum alternans. Loại rêu này phân bố chủ yếu ở Đông Á, một số nơi ở Đông Nam Á cũng có. Chúng thường mọc ở khe suối, thác nước, đất đá và những thanh gỗ lũa mục ở các đầm lầy. Chiều dài của rêu đạt từ 4 - 8 cm. Chúng dễ dàng làm tán cây bonside hoặc làm tường cho bể thủy sinh.



Rêu Mini Taiwan khá dễ chăm sóc. Cây ưa nước mát, rêu mini Taiwan ở nhiệt độ từ 12 đến 26°C, nhiệt độ cao cây dễ chết. PH: từ 5 đến 7.5

Khi mua rêu ngoài cửa hàng thủy sinh về bạn cần phải vệ sinh sạch. Ngoài cửa hàng thủy sinh Rêu Mini Taiwan sẽ được bán theo từng vỉ, dễ dàng ghép lên cây gỗ để làm tán. Rêu mini taiwan có hình dạng giống như lá thông. Khi rêu mọc quá dài, chỉ cần dùng kéo tỉa là cây bonsai trong bể lại đẹp như cũ.

Để tránh rêu hại phát triển làm ảnh hưởng đến rêu taiwan, chỉ cần để ánh sáng khoảng 6 tiếng 1 ngày. Để nhiều ánh sáng cường độ cao bể dễ bị rêu hại vào tảo xâm lấn. Ngoài ra nên mua thêm một số tép cảnh, ốc cảnh ăn rêu hại để chúng xử lý rêu hại bám trên rêu mini taiwan.

Cá thanh ngọc, cá bã trầu, cá bảy trầu - Trichopsis vittatus

Cá thanh ngọc hay còn được gọi là cá bã trầu, cá bảy trầu. Cá có tên tiếng anh là Croaking Gourami, danh pháp khoa học là: Trichopsis vittatus. Cá thanh ngọc có vẻ đẹp hoang dã với mõm nhọn, thân dẹt với chiều dài tối đa 7cm. Cá đực có nhiều màu sắc hơn cá cái và vây bụng cũng dài hơn. Cá bã trầu có bản tính nhút nhát nên nếu nuôi chung thời gian đầu chúng thường có biểu hiện hoảng loạn. Loài cá này sinh sống chủ yếu ở tầng nước sâu. Cá bã trầu là loài ăn tạp, khỏe và rất dễ nuôi.



Cá thanh ngọc có một số đặc điểm vừa giống cá sặc lại vừa giống cá chọi. Nếu nuôi cách ly trong thời gian khoảng 1 tháng trở lên, bản tính bảo vệ lãnh thổ của cá thanh ngọc được phát triển, nên khi cho vào chung bể thì chúng có biểu hiện vờn nhau, các động tác nối đuôi lượn xoay vòng quanh nhau rồi phồng mang và quạt đuôi vào nhau. Chúng bắt đầu lao vào cắn nhau và một điều đặc biệt là chúng phát ra tiếng kêu rột rột như loài ếch nhái. Khi chọi nhau, chúng cắn nhau rất mạnh làm nước sánh (văng, bắn) ra ngoài bể, thỉnh thoảng chúng câu (chu) mỏ. Trong cuộc chiến, hai con ngửa bụng lên có khi hàng giờ liền...


Vào mùa sinh sản, cá thanh ngọc quẫy nước tạo thành tiếng kêu rất to. Theo các nhà khoa học thì vây ngực của chúng có khả năng phát ra âm thanh khi quẫy nước và đây là phương thức giao tiếp rất quan trọng giữa các cá thể của các loài này. Khi sinh sản, trứng chìm xuống đáy và sau đó được cá bố mẹ thu thập lại và gắn vào tổ bọt như cá chọi.

Trichopsis pumila

Cá thanh ngọc sống tầng đáy, chúng sinh sống trong các môi trường nước sâu, ít phèn, nước trong hoặc vùng nước ngọt nông, chảy chậm hoặc nước tù với thảm thực vật thủy sinh dày. Cá khá phổ biến trong khu vực hạ lưu sông Salween cũng như trung lưu và hạ lưu sông Mekong, phía dưới thác Khone. Cũng tìm thấy trong các khu đồng ruộng ngập nước ở trung lưu Mekong. Thức ăn là động vật phiêu sinh, động vật giáp xác và ấu trùng côn trùng.

Trong tự nhiên, cá thanh ngọc thường không phải cá có giá trị thương mại, đôi khi được mua bán như là một bộ phận của các mẻ đánh bắt hỗn tạp tại các khu chợ. 





Cá anh vũ - cá tiến vua

Cá anh vũ là loài cá nổi tiếng của vùng Bạch Hạc, thành phố Việt Trì. Cá Anh Vũ có thịt trắng, quánh và thơm ngon hơn bất cứ loài cá nào của sông nước. Trong con cá Anh Vũ, phần tuyệt nhất là cái khối sụn môi. Ϲái khối sụn này chẳng những rất giòn mà còn chữa được bệnh.



Dù có chế biến theo cách nào, thì cách ngon nhất vẫn là hấρ cá. Khi bắt được, người ta thường mổ và rửɑ sạch cá, sau đó ướp gừng và một vài loại gia vị vào bụng, thêm chút nước mắm ngon. Ϲuối cùng cuốn cả con cá vào một tấm lá gừng và hấρ cách thuỷ.

Cá Anh Vũ chỉ xuất hiện và đánh Ƅắt được từ tháng 10 dương lịch đến tháng 3 năm sɑu, nhiều nhất là vào những ngày thời tiết se lạnh, nhiều sương mù. Lúc ấу cá Anh Vũ ra kiếm ăn nhiều hơn.

Ϲá Anh Vũ cũng sống theo bầy đàn nhưng kén nơi nước trong và có nhiều hɑng đá. Con cá trông dài và na ná như con trôi to nhưng Ƅộ vảy thì óng ánh, sặc sỡ rất đẹp. Và cái đầu cá thì khác thường vô cùng, nó chẳng giống một cái đầu cá nào cả. Ϲái đầu ấy, cứ nhìn vào là người ta liên tưởng đến một cái đầu lợn con vì nó giống у hệt, nhất là cái môi cá bằng sụn rất to và dàу như mõm lợn. Giống cá này ăn uống cũng rất khảnh chứ không ăn tạp như các loài cá sông khác.

Cá Anh Vũ chỉ ăn rêu tảo và sống ở nước trong, trong những hang đá sâu và khi nước lạnh mới mò ra tìm mồi. Vì vậy, việc bắt được một con Anh Vũ là cả một kỳ công. Con cá Anh Vũ nếu có may mắn bắt được, cũng phải thả vào nước thật sạch và đem đi bán ngay, vì cá này rất dễ chết. Chỉ cần bắt lên bờ thả vào nước không sạch là vài ba tiếng sau cá đã lờ đờ ngửa bụng".

Cá rất khó bắt và số lượng cũng rất ít, đây là loài cá cần được bảo tồn trong văn hóa Việt.

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

Cá vàng ba đuôi, những siêu mẫu ục ịch xinh xắn

Cá vàng ba đuôi được thuần hóa ở Trung Quốc từ hơn 1000 năm trước, bắt nguồn từ một loài cá diếc.  Cá vàng ba đuôi còn được gọi là cá vàng đuôi kép, chúng có tốc độ bơi chậm, khả năng sinh tồn của chúng trong môi trường tự nhiên là không cao. Cá vàng ba đuôi đã phát triển thành nhiều giống khác nhau và hiện có nhiều màu sắc và hoa văn đa dạng, có hình dạng và kích thước khác nhiều do với giống cá diếc được thuần hóa ban đầu.

Cá vàng ba đuôi có dáng bơi ục ịch, không nhẩy khỏi bể, dễ nuôi, hiền lành, chịu lạnh khá tốt. Khi nuôi quen cá thuần người, mỗi lần cho ăn đều lên đớp tay rất thú vị. Cá vàng ngoài mầu vàng truyền thống còn có nhiều mầu sắc đa dạng như trắng, đen, tím, đỏ, cam, nâu.

Cá vàng sinh sản bằng trứng. Cá đực có các nốt sần trên nắp mang, thân và vây ngực, còn cá cái có bụng to, lỗ sinh dục lồi ra màu đỏ hồng. Cá đẻ trứng dính vào giá thể mềm (rễ lục bình, rong thủy sinh …) thụ tinh ngoài. Vớt trứng hoặc vớt cá bố mẹ ra để ấp riêng trứng, trứng nở sau 40 – 60 giờ ở nhiệt độ 28 – 300C. Sau khi nở 2 – 3 ngày cá tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn moina.

Phân loại cá vàng ba đuôi: Cá vàng ba đuôi được phân biệt dựa trên sự khác biệt về vây.  

+Thân dài, vây đuôi đôi: Wakin, Jikin.

+Thân ngắn, đuôi ngắn, có vây lưng: Fantail (Cá Vàng đuôi quạt), Pearlscale (Cá vàng ngọc trai).

+Thân ngắn, vây đuôi dài: Veiltail (Cá vàng đuôi voan), Oranda (Cá vàng đầu lân), Broadtail Moor, Globe eye (Telescope Eye - Cá vàng mắt lồi).

+Thân ngắn, đuôi ngắn, không có vây lưng: Eggfish, Lionhead (cá vàng lan thọ), Ranchu, Celestial, Pompon, Bubble eye ( cá vàng mắt bong bóng).

+Loại khác: Ryukin, Tosakin.

Cá vàng mắt lồi đuôi bướm: telescope goldfish: Telescope có cơ thể dạng trứng với mắt to, mắt lồi.

Cá vàng mắt lồi

Cá vàng ryukin, cá vàng lưu kim
Đặc điểm phân biệt nhất của Ryukin là phần lưng phát triển cao, phần này càng cao con cá càng có giá trị.



Cá vàng Ranchu: thân ngắn, lưng cong, đuôi ngắn không có vây lưng.

Oranda

Cá vàng Oranda: Cá vàng đầu lân



Cá vàng Ping Pong: Ping pong Pearlscale Goldfish
Đây là một biến thể của dòng cá vàng ngọc trai. Thân to ục ịch và đuôi thì siêu ngắn. Dáng bơi lắc lư ngộ nghĩnh.



Cá vàng đuôi voan: Veiltail goldfish


Cá vàng tosakin: Tosakin goldfish,  Curlytail goldfish

Đây là một loại mới được lai tạo bởi người Trung Quốc. Đuôi xòe rất rộng, phổ biến có 3 màu đỏ – trắng, trắng và vàng. Đặc điểm cá có đuôi gần như lộn ngược, xòe rất rộng và dài, khi cá có màu đỏ pha màu trắng thì phần màu trắng càng nhiều thì màu đỏ sẽ tươi hơn, phần màu trắng ít thì màu đỏ biến thành màu vàng. Cá vàng tosakin là loại khó sinh sản nhất trong các loại cá vàng.

Tosakin goldfish

Cá Vàng đuôi quạt: Fantail Goldfish: Fantail có 2 dạng đuôi tiêu chuẩn: đuôi dài và ốm hoặc đuôi ngắn và mập. Đây là dòng cá phổ biến nhất trên thị trường, màu sắc đa dạng. Cá vàng đuôi quạt là một trong những dòng cá vàng đuôi kép đầu tiên. Giá cả của chúng trên thị trường là khá rẻ.



Cá vàng lan thọ, cá vàng đầu sư tử: Lionhead goldfish


Cá vàng gấu trúc



Rêu Java, rêu cá đẻ - Java Moss

Rêu Java có tên tiếng anh là Java Moss, tên khoa học là Taxiphyllum Barbieri. Cây có nguồn gốc bắt nguồn từ khu vực Đông Nam Á. Rêu java phát triển nhanh, được coi là loại đễ trồng nên được sử dụng khá phổ biến. Cá con rất hay ẩn nấp trong tán rêu Java để tránh cá to, nên tên gọi rêu cá đẻ cũng từ đó mà ra.

Rêu phát triển khá trong môi trường nước ngọt và thậm chí cả nước lợ. Rêu phát triển tốt khi có ánh sáng đủ, trong nền nhiệt độ từ 21-24 độ C và có thể chịu nền nhiệt lên đến 30-31 độ.



Rêu java làm tiền trung và hậu cảnh khá tốt . Rêu Java rất dễ chăm sóc cần lượng CO2 thấp , chỉ cần buộc vào lũa hoặc đính vào tường rêu và chờ ngày rêu lên đẹp.

Rêu java có tán không đều do đó không được taọ những bố cục quan trọng. Tuy nhiên đó cũng là 1 lợi thế của nó. Vì không đều nên nó sẽ trông tự nhiên hơn các loài rêu khác. Cụ thể bạn có thể cột lên lũa hoặc đá. Khi nó sinh trưởng thì tán rêu xù ra. Lúc này bạn có thể tuỳ ý mình mà cắt tỉa cho tự nhiên nhất. 




Cây trầu thủy sinh, cây ráy thủy sinh

Cây ráy thủy sinh là loại cây rất dễ trồng, không yêu cầu chế độ chăm sóc hay điều kiện môi trường quá cao. Tuy vậy khi mới mua về cây dễ bị thối rễ, vẫn phải biết cách trồng thì cây mới phát triển, nếu không cây rất dễ bị thối rễ và lụi tàn dần.


Nên chọn bể có nước ổn định, không nên nước mới đã cho ráy vào. Ráy sống bán cạn nên cũng có thể nuôi bằng cách cho ráy trồi lên mặt nước. Mua về có thể tháo luôn xơ quấn quanh rể, thả bồng bềnh trong bể cả tuần. Có thể cắt bớt rễ, vẫn thả bồng bềnh 1-2 tuần cho cây ra rễ ổn định rồi buộc vào lũa hoặc đá.
Ráy nana
Không trồng ráy xuống đất nền vì rễ sẽ càng nhanh úng và thối. Không thay đổi môi trường quá đột ngột. Ráy thường được ươm trên cạn tại các trại, khi bạn mua về thả vào nước hoàn toàn thường dễ bị sock gây ra tình trạng thúi cây và chết từ từ . Điều này chỉ khắc phục được khi mua cây ở chỗ bán có chất lượng tốt , như cây ráy lá nước hoàn toàn hoặc trồng bán cạn.

Ráy dễ bị bám rêu hại , nên nuôi chung với tép hoặc cá ăn rêu. Đừng để ánh sáng quá mạnh sẻ dễ bị đen lá .

Ráy thủy sinh có nhiều loại và lá cũng khác nhau như ráy châu phi, ráy lá nhỏ, ráy lá nhỏ Petite nana, ráy cẩm thạch, ráy trái tim,


Cá heo nước ngọt, cá heo xanh đuôi đỏ

Cá heo nước ngọt còn được gọi là cá heo sông, cá heo xanh đuôi đỏ, cá heo cảnh. Cá heo xanh đuôi đỏ là giống cá da trơn có tên khoa học là Biota modesta Bleeker. Cá đẻ trứng và có chiều dài tối đa khoảng 25 cm.

Cá heo xanh đuôi đỏ thường xuất hiện nhiều ở vùng thượng lưu sông Tiền và sông Hậu. Vào mùa nước nổi, chúng theo nguồn nước tỏa ra sông cái và các nhánh sông bơi xuống vùng hạ lưu: Cần Thơ, Sóc Trăng, Hậu Giang,... Loài cá này khi bắt lên khỏi mặt nước thường phát ra âm thanh “éc éc” giống tiếng heo (lợn) kêu nên được gọi là cá heo.


Cá heo xanh đuôi đỏ sống về đêm, thích ăn ốc nhỏ và đào bới ở nền cát dưới đáy hồ. Cá thường được người chơi cảnh và dùng để trị các loài ốc trong bể cá cảnh. Cá sống khỏe, đặc biệt cá có cơ quan hô hấp phụ có thể đớp khí trực tiếp. Nuôi trong bể, cá ăn nhiều loại thức ăn như côn trùng, giáp xác và cả các loại thực phẩm tổng hợp.

Đây là loài cá đặc sản của miền Tây có giá trị kinh tế. Thịt loài cá này mềm mại, thơm, beo béo,… nên rất được ưa thích như một loại đặc sản, nhất là loại cá heo da xanh đuôi đỏ cực kỳ ngon nên giá bán rất cao.



Cá heo nước ngọt hiện nay có giá cao hơn nhiều loài cá khác nên thường lâm tình trạng “cung không đủ cầu” do tình trạng khai thác và đánh bắt bừa bãi nên lượng cá trong tự nhiên trở nên khan hiếm. Vì thế, nhiều hộ gia đình hiện nay đã chuyển sang nuôi cá heo trong lồng bè mang lại hiệu quả khá cao, giúp người dân cải thiện đời sống.

Cá heo nước ngọt thường xuất hiện nhiều vào mùa nước nổi (khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch) ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài việc nuôi lấy thịt, loài cá này còn có thể nuôi làm cảnh.


Cá vàng ping pong, cá vàng ngọc trai - Pearlscale Goldfish

Cá vàng Ping Pong còn được gọi là cá vàng ngọc trai, cá vàng vảy trân châu. Cá vàng ping pong có tên tiếng anh là Pearlscale Goldfish hoặc Ping pong goldffish. Cá vàng ping pong có vẻ ngoài lạ và độc đáo, ngộ nghĩnh với phần bụng phình to và những chiếc vảy cứng tựa như ngọc trai. Phần đuôi cá ping pong xòe rộng và ngắn là điểm tạo nên sự đáng yêu cho loài cá này.

Với thân hình ục ịch quá khổ, tuổi thọ của cá vàng ngọc trai khoảng 5 đến 10 năm năm nếu được chăm sóc tốt tuổi thọ cá có thể lên tới 15 năm. 


Bao phủ bụng là những vảy giống như hạt cườm nổi lên.Các vảy này có bản chất là xà cừ và xếp thành hàng. Chúng thực sự được tạo ra từ cặn canxi cacbonat. Tuy nhiên, chúng có lớp hoàn thiện trong mờ và phản chiếu tương tự như ngọc trai, đó là cách chúng có tên thương mại thông thường.

Cá vàng ngọc trai sống ở tầng giữa, cần nước giàu Canxi, có thể để vào hồ nuôi cá ngọc trai đá hoặc sỏi, trang trí với những cây thủy sinh mềm. Phải đảm bảo không có vật nhọn trong hồ. Nếu vẩy ngọc trai bị làm hỏng, có thể chúng sẽ không mọc lại được. Không nên nuôi chung cá Ngọc trai với những giống cá vàng bơi nhanh.


Cá vàng ngọc trai là giống cá ăn tạp như những giống cá vàng khác. Có thể cho chúng ăn thức ăn nổi và dạng miếng. Tránh tất cả những thực phẩm có thể nở ra có thể gây táo bón cho cá. Có thể cho ăn rau (dưa leo, đậu Hà Lan, rau diếp), tôm, trùn chỉ, daphnia. Cá Ngọc trai khá ham ăn, nên có thể sử dụng thức ăn đóng hộp có sẵn. Nên cho ăn 1-2 lần/ ngày, đảm bảo sau 2 phút thức ăn không còn dư trong bể để tránh cá không ăn hết gây đọng bẩn bể.


Cá vàng ngọc trai ưa nước mát mẻ và khá nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ. Với cá to, nên nuôi trong các bể lớn, nếu là bể thủy sinh cá sống càng khỏe. Đối với loại còn bé 4–5 cm có thể nuôi trong các loại bể cá nhỏ, bể cá mini.

Cá vàng ngọc trai thường sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt. Trong nhiều trường hợp, chúng sinh sản mà không cần sự can thiệp của người nuôi. Nhưng nếu bạn muốn tích cực thúc đẩy quá trình sinh sản, thì quy trình này rất giống với cá vàng tiêu chuẩn. Mỗi lần sinh sản, cá vàng ngọc trai đẻ khoảng 900-1000 trứng. 


Thứ Tư, 18 tháng 9, 2019

Cá galaxy, cá ngọc trai thiên đường - Galaxy Rasbora

Cá galaxy còn được gọi với cái tên là cá ngọc trai thiên đường. Cá galaxy là loài cá có kích thước nhỏ dễ nuôi. Chúng có tên tiếng Anh là Galaxy Rasbora, tên khoa học là Danio Margarritatus, thuộc họ cá chép. Cá ngọc trai thiên đường có nguồn gốc từ Myanmar. Cá galaxy là loài rất mới, chúng mới được phát hiện vào năm 2006.

Cá galaxy, cá ngọc trai thiên đường

Cá galaxy cuốn hút người chơi cá cảnh bởi những chấm nhỏ li ti như ngọc trai trên thân hình lấp lánh,  rực rỡ rất đẹp. Đặc biệt kích thước nhỏ nhưng tuổi thọ của cá có thể lên tớn 5 năm.

Cá galaxy là loài cá hiền lành, hoà đồng. Có thể thả chúng trong bể tủy sinh với các loài cá hiền lành nhút nhát khác. Về thức ăn, cá ngọc trai thiên đường không kén ăn, chúng có thể ăn các loài giáp xác, côn trùng nhỏ và cả thức ăn tổng hợp.


Cá galaxy đực có màu sáng xanh và màu sắc vây sặc sỡ, trong khi đó cá galaxy cái có màu xanh lá xẫm và màu sắc ở vây không sặc sỡ bằng cá trống. Các đầu vây trên thân cá trống cũng dài hơn cá mái. Đặc biệt, con đực có những miếng thịt đen nhỏ lồi ra ở rìa của hàm dưới và đặc điểm này không xuất hiện ở con cái.



Trong tự nhiên, cá galaxy thường sống trong các ao nhỏ được tạo ra bởi nước ngầm hoặc các dòng nhỏ chảy ra từ suối. Trong môi trường nuôi nhốt chúng dễ thích nghi nhiều loại thức ăn. Nhiệt độ lý tưởng nhất để nuôi loài cá này là từ 23 đến 29 độ C, nồng độ pH ưa thích là từ 6.5 đến 7.5 cùng độ cứng nước ở mức trung bình.


Nên nuôi cá trong bể thủy sinh, chúng có chỗ trú ẩn, nơi đẻ trứng và các con đực không đánh nhau.
Cá galaxy không có mùa sinh sản mà chúng đẻ liên tục như cá 7 mầu. Con cái thường đẻ 1 bọc 30 quả trứng. Các bọc trứng sẽ nở ra sau 3 – 4 ngày ở nhiệt độ 24 – 25 độ C. Trứng thường trôi nổi trong nước.